Triệu Đà là triều đại chính thống hay không chính thống của người Việt?

Tóm tắt Sự tích Triệu Đà:

Triệu Đà quê ở Chân Định, nay thuộc tỉnh Hà Bắc ở miền Bắc Trung Quốc. Đà theo lệnh Tần Thủy Hoàng, đem quân đánh chiếm vùng Lĩnh Nam, là nơi cư trú của các tộc người Bách Việt dưới thời cai trị của An Dương Vương.

Vào thời ấy, An Dương Vương có nỏ thần rất mạnh. Triệu Đà biết rằng không thể thắng được Âu Lạc bằng phương pháp quân sự đàng hoàng nên rút về núi Vũ Ninh, xong giả vờ hòa với nhà Thục Phán. Triệu Đà tổ chức kết hôn cho con trai mình là Trọng Thủy kết hôn với Mị Châu-con gái An Dương Vương. Trọng Thủy ở rể bên nước Âu Lạc.

Trong những năm ở gửi rể, Trọng Thủy đã dò xét tình hình Âu Lạc, học phép chế nỏ và phá nỏ của người Âu Lạc, rồi báo cho Triệu Đà. Biết được bí mật hóa giải nỏ thần, Triệu Đà thôn tính được nước Âu Lạc. Cha con An Dương Vương thua trận, phải nhảy xuống biển tự vẫn.  Đấy chính là mưu mẹo mà Triệu Đà dùng để chiếm nước Âu Lạc. Tóm tắt cả quá trình, Triệu Đà đem 50 vạn di dân người Trung Hoa xuống để giành đất và được nhà Tần cho làm Huyện lệnh Long Xuyên thuộc quận Nam Hải mới chiếm được.

Việc đó xảy ra vào khoảng năm 179 trước Công nguyên, Triệu Vũ Đế đánh bại An Dương Vương, sáp nhập Âu Lạc vào nước Nam Việt. Vào thời Triệu Đà, nước Nam Việt có khoảng 1,3 triệu dân. Trong đó, 7.69% là dân Hoa tộc, 92.31% là dân Việt tộc.

Nhà Triệu lập nước Nam Việt một nước riêng, từng tồn tại độc lập với nhà Hán (ở Trung Quốc) trong 1 thời gian ngắn. Hoàng đế Trung Hoa cho người giết hết gia quyến, họ hàng của Triệu Đà.  Thấy không chống cự nổi, Triệu Đà đã phải quy phục nhà Hán, chỉ dám nhận tư cách châu quận. Đà bỏ việc xưng Đế (nhưng vẫn ngầm xưng Hoàng đế ở trong Nam Việt). Cách làm này được Quang Trung tái diễn. (Bọn này tưởng là thiên triều Trung Hoa ngu.)

Theo một nghiên cứu của tác giả E. Lusuo người Đài Loan về quá trình nhà Tần bình định vùng Lĩnh Nam, vào thời nhà Tần, dân cư bên này hay bên kia biên giới Việt-Trung thời hiện tại là không thể phân biệt được.

Nhà Triệu có phải là một triều đại Việt chính thống hay không, là hay một giai đoạn lịch sử gây nhiều tranh cãi cho giới nghiên cứu sử học. Sử học Việt Nam tới nay có 2 quan điểm trái ngược nhau về triều đại này:

Một là, Nhà Triệu là nhà chính thống.

Hai là, nhà Triệu không phải là nhà chính thống.

Ủng hộ quan điểm thứ nhất có nhà Trần (từng sắc phong Triệu Đà là Khai thiên Thế đạo Thánh vũ Thần triết Hoàng đế.). Kế đến, đại tác giả Nguyễn Trãi, người phò Lê Lợi diệt dặt Minh.  Đại sử thần Lê Văn Hưu, người chép Đại Việt sử ký toàn thư, cũng công khai công nhận Triệu Đà.

Triệu Đà tự xưng là “Man Di đại trưởng lão phu”, lấy vợ Việt, theo tục Việt. Triệu Đà đóng đô ở Phiên Ngung không thuộc vào đất của nước ta. Cai trị nước ta là do các viên quan lại (người phương Bắc) do Triệu Đà sai đến. Người Trung Hoa nắm giữ hầu hết chức vụ chủ chốt trong triều đình Nam Việt. 

Vấn đề nguồn gốc dân tộc

Triệu Đà là người Trung Hoa (đến từ phía Bắc sông Hoàng Hà, ngày nay là miền Bắc Trung Quốc), vốn là quan nhà Tần, quê ở Chân Định (tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc ngày nay), mộ cha mẹ vẫn táng ở đấy.

Triệu Đà có vợ Trình thị là người Đường Thâm, Giao Chỉ, nên các con cháu ông – các đời vua sau của nhà Triệu – đều có phần máu Việt. Sau khi tới thủ phủ Long Xuyên nhậm chức, Triệu Đà đã xin Tần Thủy Hoàng cho di dân 50 vạn người từ Trung Hoa đến vùng này, mở rộng lãnh thổ cho người Trung Hoa.

Bình Ngô đại cáo soạn bởi Nguyễn Trãi thay lời Bình Định Vương Lê Lợi sau khi bình xong quân Minh:

Tự Triệu, Đinh, Lý, Trần chi triệu tạo ngã quốc,

Dữ Hán, Đường, Tống, Nguyên nhi các đế nhất phương.

Nghĩa là:

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nên độc lập,

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.

Hai câu này khẳng định nước Việt không những độc lập với phương Bắc mà còn xưng đế hiệu cùng một thời (nhà Triệu với nhà Hán), tỏ ra hoàn toàn ngang hàng. (Triệu đây là Triệu Đà chớ không phải Triệu Quang Phục, vua của nước Vạn Xuân, cho phù hợp với tính đối xứng của các nhà Lý–Tống và Trần–Nguyên).

Việt Nam sử lược soạn bởi Trần Trọng Kim (1919) viết nhà Triệu là chính thống, thuộc một chương riêng, thuộc thời tự chủ. Nghĩa là, Trần Trọng Kim công nhận Triệu Đà. ·Bộ Đại Việt sử ký soạn bởi sử gia Lê Văn Hưu, đời Trần chép từ Triệu Vũ Đế đến Lý Chiêu Hoàng. Ông so sánh Vũ Đế với các bậc vua hiền thời cổ như Thuấn, Văn Vương: Triệu Vũ Đế khai thác đất Việt ta mà tự làm đế trong nước, đối ngang với nhà Hán, gửi thư xưng là “lão phu”, mở đầu cơ nghiệp đế vương cho nước Việt ta, công ấy có thể nói là to lắm vậy.An Nam chí lược soạn bởi Lê Tắc đời Trần cũng khen Triệu Đà là người mang sự học đến Việt Nam, trước cả Sĩ Nhiếp.

Bộ Đại Việt sử ký toàn thư soạn bởi Ngô Sĩ Liên, sử gia nhà Hậu Lê cũng dành cho Triệu Vũ Đế những lời tốt đẹp:

Truyện Trung Dung có câu: “Người có đức lớn thì ắt có ngôi, ắt có danh, ắt được sống lâu”. Vũ Đế làm gì mà được như thế? Cũng chỉ vì có đức mà thôi. Xem câu trả lời Lục Giả thì oai anh vũ kém gì Hán Cao. Đến khi nghe tin Văn Đế đặt thủ ấp trông coi phần mộ tổ tiên, tuế thời cúng tế, lại ban thưởng ưu hậu cho anh em, thì bấy giờ vua lại khuất phục nhà Hán, do đó tông miếu được cúng tế, con cháu được bảo tồn, thế chẳng phải là nhờ đức ư? Kinh Dịch nói: “Biết khiêm nhường thì ngôi tôn mà đức sáng, ngôi thấp mà không ai dám vượt qua”. Vua chính hợp câu ấy.

Về quan điểm thứ hai, chống Triệu Đà.

Người cầm đầu chính quyền, bản chất của bộ máy quan lại nước Nam Việt (hầu hết quan lại Nam Việt là người Trung Hoa, còn người Việt chỉ là dân bị trị), sẽ coi Triệu Đà là triều đại xâm chiếm của Trung Quốc. An Dương Vương mất nước là mở đầu thời kỳ Bắc thuộc.

Kể từ cuối nhà Hậu Lê, các sử gia Việt Nam cũng dần chuyển sang coi Triệu Đà là kẻ xâm lược.Trong Đại Việt sử ký tiền biên, Ngô Thì Sĩ chép thời kỳ Triệu Đà được chép thành kỷ “Ngoại thuộc Triệu Vũ đế”. Ngoại truyện nghĩa là ngoại tộc.

Trong chương trình đào tạo sinh viên ngành văn học (năm thứ nhất hệ 4 năm đại học), chúng tôi được giới thiệu tài liệu Khâm định Việt sử thông giám cương mục, viết bằng chữ Nho, chép bởi của Quốc sử quán triều Nguyễn. Tác phẩm từ chối coi Triệu Đà của nước ta.

Tóm lại, các sử gia triều Nguyễn vô cùng ghét Triệu Đà. Báo Sông Hương năm 1936, một đại thần của mạt thời nhà Nguyễn, cụ Phạm Quỳnh tiếp tục không coi Triệu Đà là vua của Việt Nam.

Phủ nhận từ bản thân Triệu Đà

 Triệu Đà viết thư nhờ Lục Giả gửi cho vua Hán, trong thư ông viết:

“Man Di đại trưởng lão phu, thần Đà, mạo muội đáng chết, hai lạy dâng thư lên Hoàng đế bệ hạ. Lão phu vốn là lại cũ ở đất Việt, Cao Đế ban cho ấn thao làm Nam Việt Vương. Hiếu Huệ Hoàng Đế lên ngôi, vì nghĩa không nỡ tuyệt nên ban cho lão phu rất hậu. Cao Hậu lên coi việc nước lại phân biệt Hoa – Di, ra lệnh không cho Nam Việt những khí cụ làm ruộng bằng sắt và đồng; ngựa, trâu, dê nếu cho thì cũng chỉ cho con đực, không cho con cái. Lão phu ở đất hẻo lánh, ngựa, trâu, dê đã già… Lại nghe đồn rằng, phần mộ của cha mẹ lão phu bị đập phá, anh em họ hàng đều bị giết. Vì vậy, bọn lại bàn nhau rằng: “Nay bên trong không được phấn chấn với nhà Hán, bên ngoài không lấy gì để tự cao khác với nước Ngô”. Vì vậy mới đổi xưng hiệu là Đế, để tự làm Đế nước mình, không dám làm điều gì hại đến thiên hạ. Cao Hoàng Hậu nghe tin cả giận, tước bỏ sổ sách của Nam Việt, khiến cho việc sai người đi sứ không thông… Lão phu ở đất Việt 49 năm, đến nay đã ẵm cháu rồi, nhưng vẫn phải dậy sớm, ngủ muộn, nằm không yên chiếu, ăn không biết ngon, mắt không trông sắc đẹp, tai không nghe tiếng chuông trống, chỉ vì không được làm bề tôi nhà Hán mà thôi. Nay may được bệ hạ có lòng thương đến, được khôi phục hiệu cũ, cho thông sứ như trước, lão phu dù chết xương cũng không nát. Vậy xin đổi tước hiệu, không dám xưng Đế nữa.”

Nhà Triệu ban đầu xưng độc lập, rồi sau đó lại tự coi mình là châu quận của Trung Hoa. Triệu Đà gọi dân Việt là đám “Man Di”.

Các tài liệu lịch sử của nhà Triệu còn cho thấy đến cuối đời, Triệu Đà đã quyết định bỏ danh hiệu Đế, quy phục nhà Hán (nhưng vẫn xưng Hoàng Đế ở trong Nam Việt). Vậy, Triệu Đà nhận mình không phải người Việt.

Tín ngưỡng dân gian

Trong truyền thuyết dân gian từ lâu đời là “Mỵ Châu – Trọng Thủy”, quân Triệu được người dân Việt coi là giặc. Thần Kim Quy biểu tượng cho văn hóa Việt Nam, nói với via An Dương Vương: “Giặc ở sau lưng nhà vua đấy”. (Mỵ Châu rắc lông ngỗng dẫn đường cho Trọng Thủy, vô tình báo tin cho quân Triệu truy sát cha mình).

Triệu Đà sinh ra và lớn lên hoàn toàn ở phương Bắc, hoàn toàn tiếp thu và sử dụng văn hóa, ngôn ngữ Trung Hoa. Ngay cả khi đó, ông ta cũng đóng đô ở Quảng Đông chứ chưa hề tới sống ở miền Bắc Việt Nam ngày nào). 

Sử quan Đặng Xuân Bảng của nhà Nguyễn cũng dựa vào lập luận này để phủ định Triệu Đà là vua Việt Nam: “Triệu Đà đóng đô ở Phiên Ngung không thuộc vào đất của nước ta. Cai trị nước ta là do các viên quan lại (người phương Bắc) do Triệu Đà sai đến. Nước ta nội thuộc Triệu cũng như nội thuộc Hán, Đường, làm sao so sánh với Thục Phán mà lẫn lộn thành triều đại chính thống của nước ta được?”

Tác giả Tôn Phi và bạn. Ảnh tư liệu.

Nhận xét của tác giả Tôn Phi:

Quốc sử phải lấy dân tộc làm nền. Triệu Đà là tổ sư của “ngoại giao cây tre”, còn gọi là ngoại giao đu dây. Ngoại giao cây tre của cha con Triệu Đà chỉ kéo dài chế độ được 100 năm. Chúng tôi không chấp nhận tình hữu nghị viển vông. Qủa thật, họ Triệu làm mất nước, khởi đầu thời kỳ Bắc thuộc (năm 111 trước công nguyên). Hai Bà Trưng giành lại độc lập ngắn ngủi vào năm 40 sau Công nguyên.  

Trả lời câu hỏi, Triệu Đà có phải là triều đại Việt hay không, tác giả Tôn Phi trả lời một cách khoa học: Không. Căn cứ vào thư Đà trả lời vua Hán.

Viết tại quận 7, Sài Gòn, ngày 21 tháng 06 năm 2022

Bài viết đã được đưa vào sách Việt sử đại cương của tác giả Tôn Phi.

Nhà văn Tôn Phi (triết gia Lê Minh Tôn). Chủ tập đoàn xuất bản Charlie.

Liên lạc tác giả: tonphi2021@hotmail.com.

Phone, Whatsapp, Signal: +84344331741.

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Twitter picture

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Twitter Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s